Xuất khẩu giảm dần
Có thể thấy, tuổi 2006-2011 là thời điểm “nóng” của việc XK than, làng nhàng mỗi năm Việt Nam XK khoảng gần 21 triệu tấn than. Tuy nhiên, để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, Chính phủ đã có chủ trương hạn chế XK than.
Chủ trương này đang được Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) thực hành khi đích XK than của năm 2014 dự kiến sẽ giảm xuống còn 8 - 10 triệu tấn. Thống kê mới nhất của Tổng cục thương chính cho thấy, trong tháng 3-2014, lượng XK than đá của cả nước đạt hơn 1 triệu tấn, tăng 16,4% so với tháng 2-2013, nâng lượng than đá XK của quý I-2014 là 2,84 triệu tấn, giảm 32,5% và trị giá đạt 206 triệu USD, giảm 29% so với cùng kỳ năm 2013.
Việc giảm XK than là nhằm phục vụ nhu cầu dùng than càng ngày càng lớn. Theo dự báo trong Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ duyệt theo Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg thì nhu cầu than trong nước thời kì tới sẽ tăng rất cao, cụ thể là năm 2015 là 56,2 triệu tấn, năm 2020 là 112,3 triệu tấn, năm 2025 là 145,5 triệu tấn, năm 2030 là 220,3 triệu tấn. Như vậy, so với mức tiêu thụ năm 2013 (28 triệu tấn) đến năm 2015 (chỉ sau 2 năm) nhu cầu than trong nước sẽ tăng gấp hơn 2 lần, đến năm 2020 tăng gấp 4 lần và đến năm 2030 tăng gấp 8 lần. Trong khi đó, sản lượng than ngày nay mới chỉ đạt 40 triệu tấn và trong ngày mai cũng khó có thể tăng sản lượng lên. Duyên cớ là do những chỗ “ngon lành”, dễ tiếp cận đã được khai phá hết, chỉ còn lại những chỗ khó khăn. Hơn nữa, việc đầu tư mỏ mới cần hoài lớn, thời gian dài (khoảng 300-400 triệu USD và 7-8 năm) nên “nhiệm vụ” Thủ tướng Chính phủ giao cho ngành than phải mở thêm 28 mỏ mới trong thời đoạn năm 2011 - 2015 gần như không thể hoàn tất.
Vậy nên, bài toán NK than được đặt ra. Nhưng việc NK than trong thời điểm bây chừ không hề dễ dàng.
Muốn nhập cũng khó
Ông Nguyễn Minh Duệ, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học năng lượng Việt Nam nhóng, việc NK than dài hạn với khối lượng hàng chục triệu đến hơn trăm triệu tấn/năm là khôn xiết khó khăn, do nguồn cua nhua upvc cung than ngày một hạn chế trong khi nhu cầu than của các nước ngày một tăng với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường.
Theo ý kiến của ông Duệ, muốn có nguồn than ổn định phải đầu tư mua mỏ ở nước ngoài để vỡ hoang nhưng đây là dạng đầu tư mạo hiểm và nhiều rủi ro. Hơn nữa, cơ hội mua mỏ than ở các nước có tiềm năng về than như Indonesia, Australia… không còn dễ do các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… đã khai triển đầu tư mua mỏ ở các nước đó từ hàng chục năm nay. “Nếu không có chủ trương, chính sách quyết liệt và bảo lãnh của Chính phủ thì các DN không đủ tiềm lực và không dám đầu tư mua mỏ ở nước ngoài”, ông Duệ cho hay. Thêm vào đó, để có thể NK từ chục triệu đến hơn trăm triệu tấn than mỗi năm, ngoài cua nhua upvc gia re đội tàu chuyển vận biển hùng hậu cần phải có hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ phục vụ NK than như hệ thống cảng biển, cảng sông, bến bãi, kho chứa… Muốn vậy, cần phải có quy hoạch địa điểm các hộ dùng than NK, thời khắc và chủng loại than NK. Nhưng bây giờ, quờ những vấn đề này đều còn là ẩn số.
Nên, muốn giải bài toán NK than, ông Nguyễn Cảnh Nam, chuyên gia về năng lượng đề xuất, Chính phủ chỉ đạo Bộ công thương nghiệp xây dựng và tổ chức thực hành chiến lược NK than và đầu tư ra nước ngoài để khai khẩn than đưa về phục vụ trong nước, đồng thời, có các giải pháp về cơ chế chính sách tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng như các DN thuộc thành phần kinh tế khác đầu tư ra nước ngoài phá hoang mỏ, nhất là chính sách bảo lãnh mua quyền vỡ hoang mỏ.
Nhà nước hỗ trợ về đường lối, chính sách, quan hệ ngoại giao tạo sức mạnh tổng thể khi thương lượng với các đối tác trong việc đầu tư vào các mỏ tại nước sở tại và mua than để NK về Việt Nam nhằm bảo đảm nguồn cung được ổn định và lâu dài.
Một giải pháp khác được ông Nguyễn Chí Quang, Phó trưởng ban Khoa học, Công nghệ và Chiến lược Phát triển, Vinacomin chỉ ra là cần khai thác và dùng than một cách tằn tiện và hiệu quả, trong quản lý cũng như ứng dụng công nghệ và dùng than. Bởi theo ông Quang, ở Việt Nam, hiệu suất sử dụng năng lượng trong các nhà máy nhiệt điện chỉ đạt 28-32% (thấp hơn mức thế giới 10%), hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60% (thấp hơn mức trung bình của thế giới khoảng 20%). Do đó, lượng than tiêu hao cho một đơn vị năng lượng của Việt Nam cao hơn nhiều không chỉ so với các nước phát triển, mà so cả với những nước trong khu vực. Bộ Công Thương cần xây dựng chính sách dùng than hợp lý, nhất là về chủng loại và chất lượng ăn nhập cho các hộ sử dụng than như điện, xi măng, phân bón… và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các nhà máy nhiệt điện dùng than trong nước ở phía Bắc, các hộ dùng than NK ở phía Nam.
No comments:
Post a Comment